Phát triển Tàu sân bay hộ tống

Đầu những năm 1920, Hiệp ước Hải quân Washington áp đặt những giới hạn về kích cỡ và tải trọng tối đa của tàu sân bay trên năm cường quốc hải quân hàng đầu thế giới; các hiệp ước hải quân tiếp theo hầu như giữ nguyên các điều khoản này. Kết quả là, việc chế tạo giữa hai cuộc thế chiến không đáp ứng được nhu cầu hoạt động của tàu sân bay khi Thế Chiến II lan rộng từ châu Âu. Có quá ít tàu sân bay hạm đội sẵn có để có thể đồng thời vận chuyển máy bay đến các căn cứ tiền phương, hỗ trợ các chiến dịch đổ bộ, huấn luyện kỹ thuật cất hạ cánh trên tàu sân bay cho phi công mới, tuần tra chống tàu ngầm, hay bảo vệ trên không cho các thiết giáp hạm và tàu sân bay được bố trí. Những nhiệm vụ này làm giới hạn khả năng tấn công không quân độc đáo của chúng, thể hiện qua trận Taranto và cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Việc cải biến những con tàu sẵn có (và những lườn tàu đang chế tạo cho những mục đích khác) cung cấp thêm tàu sân bay cho đến khi những chiếc đóng mới hoàn toàn sẵn có.

Việc cải biến tàu tuần dương và tàu biển chở hành khách với tốc độ tương đương tàu sân bay hạm đội được biết đến tại Hoa Kỳ như là tàu sân bay hạng nhẹ (ký hiệu lườn CVL) có khả năng hoạt động ở tốc độ của hạm đội chiến trận. Những chiếc cải biến chậm hơn được xếp loại như là “tàu sân bay hộ tống” (escort carrier), được xem như tàu phụ trợ phù hợp cho việc huấn luyện phi công và vận chuyển máy bay đến các căn cứ xa xôi.

Hải quân Hoàng gia Anh nhận ra nhu cầu tàu sân bay để bảo vệ các tuyến đường hàng hải của họ trong những năm 1930.[1] Trong khi thiết kế được chuẩn bị cho “tàu sân bay bảo vệ thương mại” và năm tàu biển chở hành khách phù hợp được đề xuất, không có tiến triển nào khác chủ yếu do tình trạng thiếu máy bay ngay cả cho những tàu sân bay hạm đội đang được chế tạo. Tuy nhiên, đến năm 1940, nhu cầu trở nên cấp bách và HMS Audacity được cải biến từ chiếc tàu buôn Đức chiếm được, và được cho nhập biên chế vào tháng 7 năm 1941.[2] Để bảo vệ chống lại máy bay Đức, các đoàn tàu vận tải thoạt tiên được cung cấp tàu phóng máy bay chiến đấu (Fighter catapult ship) và tàu CAM (catapult aircraft merchant ship) có thể mang theo một máy bay tiêm kích. Các tàu sân bay tàu buôn còn được huy động như một giải pháp tạm thời trước khi có thể cung cấp các tàu sân bay hộ tống, có thể mang theo bốn máy bay.

Vào năm 1940, Đô đốc William F. Halsey, Jr. đề xuất chế tạo tàu hải quân phụ trợ dành cho việc huấn luyện phi công.[3] Đến đầu năm 1941, Anh Quốc đề nghị Hoa Kỳ thay mặt họ chế tạo sáu tàu sân bay trên một thiết kế của chiếc Audacity được sửa đổi; tuy nhiên Hoa Kỳ đã bắt đầu đóng tàu sân bay hộ tống của riêng họ.[4] Vào ngày 1 tháng 2 năm 1941, Trưởng ban Tác chiến Hải quân Hoa Kỳ ra lệnh ưu tiên cho việc chế tạo các tàu phụ trợ để vận chuyển máy bay.[5] Các tàu Hoa Kỳ chế tạo đáp ứng được yêu cầu này thoạt tiên được gọi là “tàu máy bay hộ tống phụ trợ” (AVG: auxiliary aircraft escort vessels) vào tháng 2 năm 1942, rồi thành “tàu sân bay phụ trợ” (ACV: auxiliary aircraft carrier) từ ngày 5 tháng 8 năm 1942.[6] Mẫu đầu tiên của loại này là chiếc USS Long Island. Các hoạt động trong Chiến dịch Torch và chiến tranh chống tàu ngầm tại Bắc Đại Tây Dương chứng tỏ khả năng của nó trong đội hình di chuyển chậm của các tàu buôn hay đoàn tàu vận tải đổ bộ. Xếp lớp chúng trong Hải quân Mỹ được đổi thành “tàu sân bay hộ tống” (CVE: escort aircraft carrier) vào ngày 5 tháng 7 năm 1943 phản ảnh trạng thái được nâng cấp từ phụ trợ thành tàu tác chiến.[7] Chúng được gọi không chính thức là "Jeep carrier" hay "baby flattop"; và người ta nhanh chóng nhận ra đặc tính hoạt động tốt hơn những tàu sân bay hạng nhẹ, vốn bị chòng chành đáng kể khi biển động từ trung bình đến mạnh. Lớp Commencement Bay được thiết kế để kết hợp những đặc tính tốt nhất của tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ trên một lườn tàu ổn định hơn và một hệ thống động lực ít tốn kém.[8]

Tổng cộng 130 tàu sân bay hộ tống Đồng Minh đã được hạ thủy hay cải biến trong chiến tranh. Trong số đó, sáu chiếc của Anh Quốc được cải biến từ những tàu buôn: HMS Audacity, Nairana, Campania, Activity, Pretoria CastleVindex; số còn lại do Hoa Kỳ chế tạo. Giống như Anh Quốc, những tàu sân bay hộ tống Hoa Kỳ đầu tiên là những tàu buôn được cải biến (hay trong trường hợp của lớp Sangamon, cải biến từ các tàu chở dầu quân sự). Lớp tàu sân bay Bogue được dựa trên lườn của tàu hàng Kiểu C3; 69 tàu sân bay hộ tống cuối cùng thuộc các lớp lớp CasablancaCommencement Bay được thiết kế và chế tạo từ đầu theo mục đích, dựa trên kinh nghiệm có được từ các lớp dẫn trước.